Những nguy hiểm của tia X là gì?

Aug 31, 2022 Để lại lời nhắn

Những nguy hiểm của tia X là gì? Bác sĩ mặc áo khoác chì trong khi bệnh nhân dường như không có biện pháp bảo vệ nào?


"Chụp X-quang" là một hành động bạn có thể nghe thấy trong bệnh viện, đặc biệt là trong khoa như phẫu thuật chỉnh hình.

Sự xâm nhập mạnh mẽ của tia X có thể xuyên qua cấu trúc cơ thể con người, và tạo thành hình ảnh trên phim hoặc màn hình dựa trên hiệu ứng huỳnh quang và hiệu ứng cảm quang. Nó là một tiêu chuẩn chẩn đoán phụ trợ rất quan trọng trong bệnh sử. nghiên cứu.


Vì tia X có bức xạ nên do nhân viên đặc biệt trong bệnh viện hướng dẫn. Tại một số phòng mổ, nơi sử dụng tia X để thực hiện các thao tác can thiệp cho bệnh nhân, bác sĩ mặc áo khoác chì để tránh tổn thương do tiếp xúc lâu với bức xạ, nhưng bệnh nhân dường như không được bảo vệ. Tại sao thế này?


Hệ thống cơ học cổ điển Newton đánh dấu sự ra đời của vật lý hiện đại, và sự ra đời của tia X đánh dấu sự xuất hiện của kỷ nguyên vật lý hiện đại. Tia X là bức xạ điện từ có bước sóng nằm giữa tia tử ngoại và tia gamma. Trong tài liệu tham khảo sơ bộ về danh sách các chất gây ung thư do Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới công bố năm 2017, chúng thuộc nhóm chất gây ung thư, nhưng nguy cơ gây ung thư của chúng là hoàn toàn có thể xảy ra. Nó không thể được kiểm soát, cũng như không thể ảnh hưởng đến giá trị của nó trong lĩnh vực y tế và thậm chí toàn bộ cộng đồng khoa học.


Tia X còn được gọi là tia Roentgen. Năm 1895, khi WK Roentgen tham gia nghiên cứu tia âm cực trong một phòng thí nghiệm ở Đức, ông đã nhìn thấy ánh sáng huỳnh quang màu vàng lục trên một màn hình phủ bari platin xyanua không xa tia âm cực. Tia X xuyên thấu hơn.


Trong một câu chuyện liên quan, bàn tay của Roentgen đã được chụp X-quang và để lại hình ảnh của xương bàn tay trên tường, và Roentgen sau đó đã chụp ảnh xương bàn tay được chụp X-quang của vợ mình và trưng bày khi phát hiện được công bố. Việc phát hiện ra tia X cũng đã mang về cho Roentgen giải Nobel Vật lý năm 1901.


Và việc phát hiện ra tia X đã sớm dẫn đến một khám phá mới: hiện tượng phóng xạ.


Khi bắt đầu phát hiện ra tia X, các nhà khoa học vẫn chưa xác định được đó là sóng điện từ hay bức xạ hạt, cho đến khi nhà vật lý người Đức Laue công bố "Hiện tượng giao thoa của tia X" vào năm 1912, chứng minh rằng tia X là một sóng điện từ, và vào năm 1912 Trong các chứng minh sau này của các nhà khoa học, giới vật lý và hóa học đã dần dần chấp nhận tính hiệu quả của nhiễu xạ tia X trong việc phân tích cấu trúc tinh thể.


Trong thời gian đó, giới khoa học bị cuốn vào sự bùng nổ nghiên cứu về tia X. Với giả thiết rằng sự phát huỳnh quang bắt nguồn từ tia X, nhà vật lý người Pháp Becquerel đã chiếu xạ một vật liệu tinh thể muối uranium dưới ánh nắng mặt trời, và tình cờ phát hiện ra rằng muối uranium thu được từ bức ảnh âm bản. Có thể thu được kết quả tương tự mà không cần bị chiếu xạ bởi mặt trời, đây là hiện tượng phóng xạ đầu tiên được giới khoa học phát hiện.


Uranium cũng đã trở thành nguyên tố phóng xạ đầu tiên được phát hiện, và tin tức về việc phát hiện ra chất phóng xạ đã thu hút sự chú ý của Marie Curie, điều này cũng giúp nhân loại bước vào kỷ nguyên nghiên cứu khoa học mới trong thế giới nguyên tử.


Tia X và hiện tượng phóng xạ lần lượt được phát hiện, nhưng tia X không phải là bức xạ và không thể chỉ do vật chất tạo ra. Nguyên tắc tạo ra nó là các electron chuyển động tốc độ cao bắn phá mục tiêu vonfram, khiến các electron bên ngoài của vonfram tạo ra sự chuyển tiếp và giải phóng năng lượng. Tác hại đối với cơ thể con người là do bức xạ gây ra.


Mặc dù cả hai đều có thể gây hại cho cơ thể con người, nhưng "phóng xạ" khác với "phóng xạ". Phóng xạ đề cập đến sự phát xạ tự phát các tia từ hạt nhân nguyên tử không ổn định, chẳng hạn như tia alpha, tia beta, tia gamma, v.v.


Tiếp xúc lâu dài với bức xạ sẽ gây ra các tổn thương trong các cơ quan và hệ thống của con người, và có thể gây đột biến gen, dẫn đến bệnh bạch cầu, thiếu máu bất sản, ung thư, lão hóa sớm và các bệnh khác. Nếu các sóng điện từ tạo ra bức xạ được che chắn, bức xạ cũng sẽ biến mất, do đó Hệ thống tia X sẽ không tạo ra bức xạ nữa miễn là điện áp cao được cắt sau khi sử dụng.


Tại sao bệnh nhân không đeo nó?

Trong phòng mổ, nơi dùng tia X để thực hiện các thao tác can thiệp cho bệnh nhân, các bác sĩ sẽ mặc quần áo chì nặng. Quần áo có chì, tức là, quần áo cách ly chì, là một công cụ bảo vệ bức xạ có thể che chắn các tia trong quá trình kiểm tra X quang.


Phẫu thuật can thiệp là phẫu thuật xâm lấn tối thiểu dưới sự hướng dẫn của thiết bị chẩn đoán hình ảnh y tế. Nó được đưa vào cơ thể bệnh nhân bằng cách sử dụng một ống thông có dây dẫn hướng,… Đây là một phẫu thuật có độ nhạy cao với thao tác của bác sĩ. Chẳng hạn như phẫu thuật can thiệp tim, phẫu thuật can thiệp túi phình, phẫu thuật can thiệp ung thư gan,… thì một đơn vị phải mất từ ​​một đến bốn hoặc năm giờ đồng hồ.


Bác sĩ thực hiện phẫu thuật phải tiếp xúc với bức xạ trong thời gian dài, có thể phải tiếp xúc với bức xạ hơn mười giờ mỗi ngày, tương đương với việc chụp hàng nghìn lần chụp X-quang liên tục. Vì vậy, họ cần mặc quần áo có chì để giảm thiểu tác hại của bức xạ.


Đối với bệnh nhân phẫu thuật can thiệp cần sử dụng máy chụp mạch để hình dung lại các mạch máu trong cơ thể với sự hợp tác của tia X và chất cản quang, loại phẫu thuật này có thể phơi bày tổn thương cho bác sĩ mà không cần phẫu thuật. Một khi tia X được che chắn bởi quần áo chì, không thể nhìn thấy các tổn thương và không thể thực hiện phẫu thuật.


Và mỗi bệnh nhân chỉ được chiếu tia X trong khoảng thời gian một ca mổ, không giống như các bác sĩ làm việc trong phòng mổ phải tiếp xúc với tia X ngày này qua ngày khác, vì vậy bệnh nhân không cần phải mặc quần áo chì mà là các bác sĩ. làm.


Trên thực tế, quần áo bằng chì có nhiều hình dạng khác nhau. Theo nhu cầu, có các loại áo cộc tay, dài tay, áo vest, quàng khăn chì bảo hộ, tạp dề, mũ lưỡi trai,… Khi khám bệnh bằng X quang theo yêu cầu của nhà nước, không khám những bộ phận chưa nổi của bệnh nhân. Đặc biệt, tuyến sinh dục và tuyến giáp cũng được che chắn và bảo vệ bằng quần áo có chì. Ví dụ, khi thực hiện CT đầu, các bác sĩ sẽ mặc quần áo có chì để bảo vệ vùng bụng của bệnh nhân.


Nhược điểm của áo khoác chì

Trên thực tế, khi bắt đầu phát hiện ra tia X, Roentgen đã nhận thấy rằng tia X có độ xuyên thấu cực mạnh có thể xuyên qua hàng nghìn trang sách, vài cm gỗ và cao su cứng, cũng như 15 cm tấm nhôm, nhưng dày 1,5 li. Tấm chì không thể đi qua. Điều này là do nguyên tử càng nhiều và khối lượng riêng của vật liệu càng cao thì khả năng chống bức xạ càng mạnh, nguyên tử của chì càng cao, càng nhiều electron bên ngoài hạt nhân thì khả năng xảy ra hiệu ứng quang điện và tán xạ Compton càng cao. , vì vậy nó có thể chống lại tia X.


Trên thực tế, các nguyên tố có tỷ lệ kim loại nặng lớn hơn 4 có khả năng nhất định để chống lại các tia tần số cao, bao gồm vàng, bạc, đồng, sắt và chì. Trong thực tế, bê tông và thép có thể che chắn tia. Lớp ngoài của lò phản ứng của nhà máy điện hạt nhân được làm bằng bê tông rất dày. Che chắn bức xạ, nhưng những vật liệu này không hiệu quả và không thích hợp để làm quần áo bảo hộ. Không cần phải nói, vàng và bạc đặc hơn chì, nhưng đắt tiền. Xét về nguyên liệu có thể coi hiện nay, chì có tính chất tương đối rẻ và ổn định nên đã trở thành nguyên liệu sản xuất quần áo bảo hộ lao động.


Theo những suy xét này, có thể thấy rằng sự ra đời của quần áo chì là kết quả của sự đánh đổi giữa các kịch bản ứng dụng, khả năng ngăn chặn bức xạ và giá thành vật liệu nên nó cũng có những khuyết điểm.


Trước hết, quần áo có chất chì không thể bảo vệ tuyệt đối cho người mặc trong môi trường bức xạ, nhất là đối với những bác sĩ tiếp xúc với bức xạ trong thời gian dài. Do sự thuận tiện của thao tác vô trùng và thao tác phẫu thuật, không được che phủ toàn bộ cơ thể bằng quần áo có chì. Ví dụ, chúng ta có thể thấy áo khoác chì không có tay áo.


Ngoài ra, trọng lượng của áo chì cũng không hề nhỏ, có thể nặng tới 40 cata, đây là gánh nặng lớn đối với những bác sĩ đã thực hiện ca mổ lâu năm; và lớp phủ chì có tuổi thọ sử dụng khác và cần được bảo dưỡng và quản lý thích hợp. Để tránh làm giảm tuổi thọ và ảnh hưởng đến tác dụng bảo vệ.


Các hướng cải tiến trong tương lai

Từ phẫu thuật mà không cần gây mê cho đến sự xuất hiện của các ngành mới như kỹ thuật y sinh, y học đã trải qua sự phát triển của y học cổ truyền, y học thực nghiệm và các hệ thống y học hiện đại.

Trong thực tiễn chiến đấu chống lại bệnh tật từ lâu, nước này đã phát triển các công nghệ như cấy ghép nội tạng và cấy ghép nội tạng nhân tạo vốn chỉ có thể xuất hiện trong khoa học viễn tưởng nhiều năm trước. Như nhiều người lính áo trắng đã nói, những gì thuốc có thể làm được bây giờ dường như là không nhiều. Nhưng khi mọi người đối mặt với căn bệnh này, họ nhận ra rằng y học có thể làm được quá ít.

Phẫu thuật can thiệp cùng với ngoại khoa và nội khoa hiện nay được mệnh danh là ba ngành trụ cột và là xu hướng tất yếu của sự phát triển y học trong tương lai. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi thiệt hại do bức xạ cho nhân viên y tế trong quá trình này, các biện pháp bảo vệ cần được tăng cường và công nghệ y tế cần tiếp tục được cải thiện.

DIGITAL MOBILE X-RAY MACHINE   DR